Lịch sử hình thành và phát triển Không_quân_Nhân_dân_Việt_Nam

Buổi đầu sơ khai

"Vốn liếng" đầu tiên Không quân Việt Nam là từ 2 chiếc máy bay De Havilland Tiger Moth và chiếc Morane-Saulnier MS-343 thuộc sở hữu riêng của Cố vấn Vĩnh Thụy tặng cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cuối năm 1945. Máy bay được tháo cánh chở bằng tàu hỏa từ Huế ra Hà Nội và chuyển về sân bay Tông (nay thuộc xã Kim Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội tạm cất giữ. Khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay tiếp tục được tháo rời, chuyển bằng thuyền lên Bình Ca, rồi lên Soi Đúng (Tuyên Quang). Trong quá trình vận chuyển, bị máy bay Pháp phát hiện và bắn phá, nên cả hai chiếc máy bay đều bị hư hỏng ít nhiều.

Ngày 9 tháng 3 năm 1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam, ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Quốc phòng, sau chuyển sang Bộ Tổng Tham mưu, do Hà Đổng, nguyên là thư ký của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu làm Trưởng ban, và một số kỹ thuật viên như Nguyễn Văn Đống (cựu binh sĩ thuộc địa Pháp tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất), Nguyễn Đức Việt (tên thật là Siegfried Wenzel, người gốc Đức, cựu binh sĩ Lê dương Pháp), Nguyễn Tâm Trinh... Ban có nhiệm vụ nghiên cứu sử dụng máy bay cũng như các kỹ thuật chiến đấu chống lại ưu thế trên không của quân Pháp. Tuy nhiên, do không có điều kiện bảo dưỡng nên cả hai máy bay đều hư hỏng sau chuyến bay đầu tiên, được sử dụng làm buồng tập lái dưới mặt đất và mô hình học tập cho các học viên.[1][2]

Năm 1951, Ban Nghiên cứu Không quân được giải thể và hầu hết nhân sự của Ban được chuyển thuộc vào các đơn vị phòng không đang được thành lập.

Những nền móng của Không quân Việt Nam

Sau khi ổn định được quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khởi động lại chương trình xây dựng lực lượng không quân, với sự giúp đỡ từ các đồng minh thân cận là Liên XôTrung Quốc. Ngày 3 tháng 3 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu Sân bay trực thuộc Tổng Tham mưu trưởng. Ông Trần Quý Hai, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 325, được cử làm Trưởng ban. Ngày này về sau được lấy làm ngày thành lập Không quân Nhân dân Việt Nam.

Một năm sau đó, liên tục các đoàn cán bộ, chiến sĩ thuộc Ban nghiên cứu sân bay được cử đi nước ngoài học tập. Ngày 26 tháng 1 năm 1956, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận 5 máy bay đầu tiên do Trung Quốc viện trợ gồm 2 Li-2 và 3 Aero 45. Ngày 24 tháng 2 năm 1956, 2 đoàn học viên lái máy bay gồm Đoàn học máy bay tiêm kích MiG-17, gồm 50 học viên, do Phạm Dưng làm Đoàn trưởng và Đoàn học máy bay ném bom Tu-2, gồm 30 học viên, do Đào Đình Luyện làm Đoàn trưởng, học tại Trường Không quân số 2 ở Trường Xuân, Trung Quốc. Về sau, Đào Đình Luyện chuyển sang làm Đoàn trưởng Đoàn học máy bay MiG-17 và Phạm Dưng được giao nhiệm vụ phụ trách nhóm huấn luyện máy bay Li-2 và trực thăng Mi-4. Ngoài ra, trong Đoàn học Tu-2 còn có 6 học viên dẫn đường trên không (chuyên dẫn đường trên các loại máy bay và trực thăng) đầu tiên.

Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ban hành Quyết định số 319/QĐ thành lập Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu trên cơ sở tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu Sân bay và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Đại tá Đặng Tính được bổ nhiệm làm Cục trưởng, Thượng tá Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy, Trung tá Hoàng Ngọc Diêu làm Tham mưu trưởng. Ngày sau khi thành lập, ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục Không quân ra quyết định thành lập Đại đội bay gồm: Ban chỉ huy đại đội, 3 Chủ nhiệm Dẫn đường, Thông tin và Máy (kỹ thuật hàng không); 1 trung đội bay Il-14, 1 trung đội bay Li-2, 1 trung đội bay An-2 và 1 trung đội máy gồm tất cả nhân viên kỹ thuật trên không (cơ giới) và mặt đất của các loại máy bay. Trên cơ sở đó, chỉ 8 ngày sau, ngày 1 tháng 5 năm 1959, Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên, Trung đoàn 919, được thành lập tại sân bay Gia Lâm. Đến ngày 20 tháng 8, Trung đoàn Huấn luyện không quân 910 cũng được thành lập.[3]

Lực lượng không quân tiêm kích ra đời

Đoàn không quân "Sao Đỏ", đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang góp phần xứng đáng trong trận Điện Biên Phủ trên không

Để chuẩn bị cho lực lượng không quân tiêm kích, từ giữa năm 1960, 6 sĩ quan [4] và một chiến sĩ Lê Thành Chơn được triệu tập về Trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn để ôn văn hóa và học tiếng Trung Quốc, chuẩn bị để đào tạo sĩ quan dẫn đường (hoa tiêu) trong lực lượng không quân. Cuối năm 1961, toàn bộ các học viên dẫn đường tốt nghiệp và về nước, cùng tham gia xây dựng cơ sở và nền tảng hệ thống dẫn đường mặt đất phục vụ cho chiến đấu sau này.

Bên cạnh đó, ngày 30 tháng 5 năm 1963, Trung đoàn không quân tiêm kích 921, mật danh là Đoàn Sao Đỏ, được thành lập tại cao nguyên Vân Quý (Trung Quốc), trên cơ sở Đoàn học viên tiêm kích MiG-17, do Trung tá Đào Đình Luyện làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đỗ Long làm Chính ủy, Thiếu tá Trần Mạnh làm Trung đoàn phó, Thiếu tá Trần Văn Thọ làm Tham mưu trưởng[5]. Đến ngày 22 tháng 10 năm 1963, Cục Không quân sáp nhập với Bộ Tư lệnh Phòng không thành Quân chủng Phòng không-Không quân. Mặc dù vậy, trên thực tế, lực lượng không quân bấy giờ ở miền Bắc Việt Nam chỉ có 1 trung đoàn vận tải 919 và trung đoàn 910 (trường huấn luyện).

Mãi đến ngày 3 tháng 2 năm 1964, lễ thành lập Trung đoàn không quân đầu tiên 921 mới được tổ chức tại Mông Tự, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, cùng lúc với việc tiếp nhận 33 chiếc máy bay chiến đấu kiểu MiG-17, 3 chiếc máy bay huấn luyện kiểu MiG-15UTI. Ngày 6 tháng 8 năm 1964, trung đoàn cùng với 70 phi công đào tạo ở Trung Quốc trở về nước cùng với số máy bay được viện trợ.

Cuộc đối đầu với Không quân Mỹ

Một biên đội MiG-17 của Không quân nhân dân Việt Nam tại sân bay Nội Bài sau trận đánh ngày 27-6-1967. Từ trái sang phải: Lưu Huy Chao, Lê Hải, Mai Đức Toại, Hoàng Văn Kỳ

Tuy trở về nước với toàn bộ phi công và máy bay, nhưng lực lượng tiêm kích QĐNDVN vẫn tập trung vào việc huấn luyện, giữ tuyệt đối bí mật, tránh tham chiến. Với lực lượng không quân nhỏ bé, lạc hậu, mới thành lập của QĐNDVN, theo lẽ lạc quan nhất, thì việc giành chiến thắng trước một lực lượng không quân hùng hậu, hiện đại, nhiều kinh nghiệm của Hoa Kỳ là một điều hoang tưởng. Các phi công Mỹ tin rằng đối thủ của họ sẽ là những phi công Liên Xô, hoặc chí ít cũng là phi công Trung Quốc, chứ không thể nào là những phi công Việt Nam non nớt.

Khi Chiến dịch Mũi Tên Xuyên khởi động vào năm 1964, bầu trời Việt Nam hoàn toàn do các phi công Mỹ làm chủ. Không quân Mỹ đã tung vào cuộc chiến hơn 2.000 máy bay phản lực các loại, trong khi Không quân Nhân dân Việt Nam chỉ có trong tay chưa đến 50 chiếc tiêm kích đời cũ MiG-17. Cuộc đấu giữa Không quân Nhân dân Việt Nam với Không quân Hoa Kỳ được ví như cuộc đấu giữa DavidGoliath, tức là giữa chàng tí hon với gã khổng lồ.

10h35 ngày 6 tháng 8 năm 1964, một ngày sau sự kiện Mỹ dùng không quân và hải quân đánh vào Nghệ AnQuảng Ninh, 4 chiếc máy bay MiG-17 cất cánh từ sân bay Mông Tự (Trung Quốc) đã hạ cánh xuống sân bay vừa được xây dựng ở Nội Bài phía Bắc Thủ đô Hà Nội. Ngày hôm sau, 7 - 8 máy bay do thám lockeed U2 của Mỹ đã bay ngang qua sân bay này và sau đó Đài BBC đã loan tin, nhưng phi công Mỹ không quan tâm lắm, vì MiG-17 là loại tiêm kích đã hoàn toàn lạc hậu, chỉ có vận tốc dưới âm, không có radar cũng như tên lửa. Viên tướng J.Paul, chỉ huy tàu sân bay USS Constellation của Mỹ tuyên bố: "Cuộc chiến đấu với phi công Việt Nam chỉ là trò chơi. Các máy bay trinh sát cho phép người Mỹ nắm rõ lực lượng không quân non trẻ, một dúm máy bay cổ lỗ trú trong những bức tường bằng đất đắp không mái che".[6]

Hoa tiêu Lê Thành Chơn cho biết: "Trên thực tế, tôi không thể sử dụng các chiến thuật được huấn luyện tại Trung Quốc để chống lại Mỹ. Chương trình huấn luyện của Trung Quốc dựa vào kinh nghiệm từ Chiến tranh Triều Tiên. Tuy nhiên, thời đó thì Mỹ làm gì có công nghệ máy bay tân tiến như khi tham chiến ở Việt Nam. Những tổn thất trong giai đoạn đầu là do phi công học theo cách đánh của Trung Quốc; nhưng rồi chúng tôi bắt đầu sử dụng chiến thuật của chính mình"[7].

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng huân chương cho phi công Nguyễn Văn Cốc (trung đoàn tiêm kích 921). Nguyễn Văn Cốc đã bắn hạ 11 máy bay Mỹ (gồm cả hai UAV trinh sát), ông có thành tích không chiến cao nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là phi công MiG-21 thành công nhất thế giới

Với số máy bay viện trợ thêm cùng các phi công được đào tạo thêm, ngày 4 tháng 8 năm 1965, trung đoàn không quân tiêm kích thứ hai là Trung đoàn không quân tiêm kích 923, mật danh Đoàn Yên Thế, được thành lập, gồm 2 đại đội 17 phi công MiG-17, do Trung tá Nguyễn Phúc Trạch làm Trung đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Ngọc Phiếu làm Chính ủy. Không quân Việt Nam được trang bị thêm một số máy bay MiG-17F có bộ phận tăng lực.

Đến cuối năm 1965, Không quân Việt Nam có thêm một số máy bay MiG-21 do Liên Xô viện trợ, máy bay MiG-21 được lắp ráp tại hangar của sân bay Nội Bài từ giữa năm 1965. Cán bộ kỹ thuật được học chuyển loại từ khai thác MiG-17 sang khai thác MiG-21 cũng tại ngay ở sân bay này. Lớp phi công MiG-21 đầu tiên lái máy bay MiG-21 thuộc đoàn phi công học tại Crasnodar do Trung úy Phạm Thanh Ngân là đoàn trưởng và cũng ông là người dùng MiG-21 bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên. Sau này ông trở thành Tư lệnh Không Quân rồi Phó Tổng tham mưu trưởng và là Ủy viên Bộ chính trị BCH TƯ ĐCS Việt Nam. Một số phi công giỏi của Trung đoàn 921 được đưa sang Liên Xô để huấn luyện chuyển loại như Phạm Ngọc Lan, Nguyễn Ngọc Độ, Nguyễn Nhật Chiêu...

Cũng trong đầu năm 1966, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam một số máy bay J-6, một biến thể của MiG-19. Với số máy bay này, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 3 được thành lập tại Sóc Sơn với phiên hiệu Trung đoàn không quân tiêm kích 925, với Trung tá Lê Quang Trung làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Mai Đức Toại làm Trung đoàn phó. Một số cán bộ, phi công Trung đoàn 923 được huấn luyện chuyển loại MiG-19 tại căn cứ Trường Không quân số 1 ở Tế Nam (Trung Quốc). Tuy nhiên, do tình hình chiến đấu ác liệt và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc nên mãi đến tháng 10 năm 1969, trung đoàn mới về nước tham chiến, đóng căn cứ tại Yên Bái.

Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ Tư lệnh Không quân, được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z[8]. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đến nửa cuối năm 1968, trong biên chế Bộ đội phòng không - không quân đã có 5 sư đoàn phòng không và 4 trung đoàn vô tuyến kỹ thuật độc lập. Không quân Việt Nam đã có 4 trung đoàn không quân tiêm kích với 59 chiếc máy bay tiêm kích MiG-17F/PF, 12 chiếc J-6 (phiên bản Trung Quốc của MiG-19S) và 77 chiếc MiG-21F-13/ PF/PFM[9].

Ngày 1 tháng 12 năm 1971, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 4 được thành lập, với phiên hiệu là Trung đoàn không quân tiêm kích 927, căn cứ tại Thọ Xuân, vì vậy có mật danh Đoàn Lam Sơn. Thiếu tá Nguyễn Hồng Nhị, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ nhiệm bay của Trung đoàn không quân 921 được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng. Thiếu tá Trần Ưng làm Chính ủy. Thiếu tá Nguyễn Nhật Chiêu, đại úy Nguyễn Văn Nhiên và đại úy Nguyễn Đăng Kính làm trung đoàn phó. Đại úy Nguyễn Văn Tỉnh làm Tham mưu trưởng. Toàn bộ máy bay MIG-21MF (có 4 giá treo vũ khí) giao cho Trung đoàn 921, và số MIG-21PFM (có 2 giá treo) được giao cho Trung đoàn 927.

Những tổn thất và thành tích không chiến

Trước một đối phương chiếm ưu thế tuyệt đối cả về số lượng lẫn chất lượng, với hàng ngàn máy bay và hàng trăm phi công có trên 1.000 giờ bay trên nhiều loại máy bay khác nhau, Không quân Việt Nam vào lúc cao điểm cũng không có quá 100 máy bay MiG-17/19/21 với chưa đến 100 phi công với số giờ bay ít ỏi (khoảng 200 giờ mỗi người), thì những tổn thất của phía Việt Nam là rất khó chịu đựng. Họ đã cố gắng cải thiện vấn đề này bằng nhiều biện pháp tổng hợp từ tinh thần đến chiến thuật đánh nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Tuy nhiên, các phi công Mỹ cũng không phải là những kẻ bất tài.

Phía Mỹ tuyên bố trong thời gian từ 1965 đến 1973, đã có 194 phi công của họ (trong đó có 143 là phi công F-4) bắn hạ tổng cộng 196 máy bay MiG. Phía Việt Nam công nhận có 131 chiếc MiG bị mất khi không chiến và 23 chiếc khác bị mất do tai nạn, đồng thời tuyên bố đã bắn hạ khoảng 266 tới 320 máy bay các loại của đối phương. Một tài liệu khác của Hải quân Mỹ công bố, trong suốt thời gian từ ngày 7 tháng 6 năm 1965 đến 12 tháng 1 năm 1973, các phi công Hải quân Mỹ đã hạ 60 chiếc MiG. Đặc biệt với chiến dịch Bolo vào năm 1967 và chiến dịch Top Gun vào năm 1972 của người Mỹ đã làm không quân Việt Nam thiệt hại 9 máy bay chỉ trong vài ngày, đây là tỷ lệ mất mát rất lớn khi mà số lượng phi công của Việt Nam khi đó chỉ có vài chục người.

Máy bay tiêm kích MiG-17 này đã được Nguyễn Văn Bảy (B) điều khiển ngày 19 tháng 4 năm 1972 và ném bom trúng tàu khu trục Higbee đang thực hiện nhiệm vụ pháo kích Đồng Hới.

Riêng ngày 2 tháng 1 năm 1967, chiến dịch Bolo nhằm gài bẫy các MiG Việt Nam được thực hiện. Trong ngày này, có 6 MiG cất cánh, thì 5 chiếc bị bắn rơi tại chỗ, 5 phi công phải nhảy dù (trong đó có ba người về sau trở thành hạng "Ách" là Nguyễn Đăng Kỉnh, Nguyễn Văn Cốc, Nguyễn Hồng Nhị) nhưng may mắn không có ai bị thương, phía Mỹ không mất máy bay nào. Trong hai ngày sau, riêng đoàn 921 mất thêm 3 chiếc nữa. Trong vòng 3 ngày, Việt Nam tổn thất 9 máy bay trong tổng số 16 máy bay tham gia chuẩn bị chiến đấu.[10]

Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam còn bị tổn thất bởi chính những người đồng đội Phòng không của mình. Ngay trong không chiến, giữa đông đảo các máy bay của đối phương, các MiG cũng rất dễ bị trúng đạn lạc trong lưới lửa của pháo phòng không Việt Nam. Ngoài ra, do tưởng lầm là máy bay địch, những người lính phòng không còn bắn nhầm trong các trường hợp đáng tiếc. Ngoài trường hợp 3 máy bay MiG-17 bị rơi, được cho là bị đạn cao xạ bắn nhầm ngày 4 tháng 4 năm 1965, tài liệu phía Việt Nam ghi nhận hai trường hợp MiG-17 và MiG-21 bị bắn nhầm bởi tên lửa SAM-2 của Việt Nam làm 1 phi công chết, 1 bị thương nặng.[11] Trong thời gian đầu Chiến dịch Sấm Rền, sự thiếu kinh nghiệm cũng làm phía Việt Nam mất nhiều phi công trẻ và máy bay do tai nạn, có lúc làm cho lực lượng không quân Việt Nam gần như tê liệt.

Khi các cuộc tấn công đường không do Mỹ tiến hành nổ ra, không quân nhân dân Việt Nam luôn bị áp đảo về số lượng. Ví dụ như đầu năm 1972, trên chiến trường chỉ có 71 máy bay tiêm kích của Việt Nam (40 chiếc MiG-17MiG-19 là máy bay thế hệ cũ, chỉ có 31 chiếc MiG-21 là tương đối hiện đại) chống lại 360 máy bay tiêm kích chiến thuật của Không quân Mỹ và 96 máy bay tiêm kích của Hải quân Mỹ, phần lớn trong đó là F-4 Phantom thuộc các biến thể hiện đại nhất.

Tuy nhiên, bất chấp thời gian huấn luyện, trang bị và số lượng kém hơn, các phi công Việt Nam đã thể hiện sự dũng cảm và sáng tạo của họ trong cả hai phương diện chiến thuật và kỹ thuật, làm kinh ngạc đối phương.

Ví dụ, trong ngày 10 tháng 5 năm 1972, đã diễn ra cuộc không chiến dữ dội nhất trong năm 1972 với 15 trận không chiến. Các phi công Mỹ trong đội bay đã được đào tạo đặc biệt (chương trình huấn luyện TopGun) họ và đã bắn hạ 3 chiếc MiG-17, 1 chiếc MiG-19 và 2 chiếc MiG-21, đổi lại có 5 chiếc F-4 Phantom của Mỹ bị hạ (Việt Nam tuyên bố 2 chiếc F-4 khác cũng đã bị hạ nhưng Mỹ không công nhận). Phía Việt Nam cũng công nhận trong vòng 15 ngày (từ 26/4 tới 10/5), họ đã mất 9 phi công giỏi. Sau khi họp bàn rút kinh nghiệm, các phi công Việt Nam dùng chiến thuật mới để phản công. Ngày 11 và 13/5, phi công Việt Nam hạ được 4 F-4 mà không bị tổn thất. Ngày 18/5, các phi công Việt Nam xuất kích 26 lần và tiến hành 8 trận không chiến, bắn rơi 4 chiếc F-4 Phantom trong khi Việt Nam không bị tổn thất.[12].

Lưu Huy ChaoLê Hải là 2 phi công lái MiG-17, mỗi người đã bắn rơi 6 máy bay Mỹ

Trong tháng 6, các Trung đoàn không quân tiêm kích 921 và 923 của Việt Nam đã bắn rơi 16 máy bay đối phương và chịu tổn thất 4 chiếc. Ngày 27 tháng 6, Không quân Mỹ tổ chức một trận tập kích lớn vào Hà Nội với 24 máy bay cường kích và 20 máy bay tiêm kích F-4 yểm hộ. 5 chiếc MiG-21MF của Việt Nam đã hạ 4 chiếc F-4E của các Liên đội không quân chiến thuật số 366 và 423 của Không quân Hoa Kỳ tại vùng trời Tây Bắc Việt Nam (các F-4 bị rơi có số hiệu 68-0314, 67-0248, 69-7271, 69-7296); bắn bị thương 1 chiếc F-4E (số hiệu 67-0243), phía Việt Nam không bị tổn thất.[13]

Nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh Vladimir Ilyin đã có bài viết tổng kết về cuộc đối đầu giữa Không quân Nhân dân Việt Nam và Không quân Mỹ trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, theo đó:

  • Trong giai đoạn một, từ tháng 4/1965 đến tháng 11/1968, trên bầu trời Việt Nam đã diễn ra 268 trận không chiến, trong các trận đó đã có 244 máy bay Mỹ và 85 máy bay Việt Nam bị bắn rơi. Trong số đó có 27 F-4 và 20 MiG-21[14]. Theo các số liệu của Việt Nam, trong 4 tháng đầu năm 1966 đã có 11 máy bay Mỹ và 9 chiếc MiG-17 của Việt Nam bị bắn hạ trong các trận không chiến[15]. Từ tháng 5 tới tháng 12/1966, MiG-21 chính thức tham chiến, Mỹ đã mất 47 máy bay mà chỉ hạ được 12 chiếc của Việt Nam. Nửa đầu năm 1968, trong 40 trận không chiến các phi công Việt Nam đã tiêu diệt 25 máy bay. Đặc biệt, trong tháng 12 năm 1966, nhờ chiến thuật hiệu quả, các phi công Việt Nam đã bắn rơi 14 chiếc F-105 Thunderchief của Mỹ mà không chịu tổn thất nào[16] Trong năm 1967, Không quân Việt Nam đã hạ được 124 máy bay Mỹ và mất 60 chiếc MiG. Trong 3 tháng đầu năm 1968, Không quân Việt Nam đã hạ 44 máy bay Mỹ trong các trận không chiến[15].
  • Trong giai đoạn 2 (năm 1972), giữa các máy bay Mỹ và Việt Nam đã có 201 trận không chiến, trong đó phía Việt Nam mất 54 máy bay (gồm 36 MiG-21 và một MiG-21US) và Mỹ mất 90 máy bay (trong đó có 74 tiêm kích F-4 và 2 máy bay trinh sát RF-4C)[12].

Trong suốt các cuộc không chiến giữa không quân Việt Nam với quân đội Mỹ, phía Việt Nam có 16 phi công đạt đẳng cấp "Ách" (tức đã bắn hạ được từ 5 máy bay đối phương trở lên), gồm 14 phi công MiG-21 và 2 phi công lái MiG-17. Trong đó người cao nhất là phi công MiG-21 Nguyễn Văn Cốc đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ. Một phi công huyền thoại khác là Nguyễn Văn Bảy, còn gọi là "Bảy A", phi công MiG-17, đã bắn hạ 7 máy bay Mỹ (cao nhất trong các phi công lái MiG-17). Trong khi đó, chỉ có 3 nhóm phi công Mỹ đạt đẳng cấp "Ách" (đều là phi công lái F-4) và người cao nhất là Hoa tiêu, Đại úy Không quân Chuck E. DeBellevue đã bắn hạ được 6 máy bay. Hai tổ lái còn lại là tổ lái của Ritchie Richard (phi công) và Feinstein Jeffrey S. (hoa tiêu) của Không quân và tổ lái Cunningham Randolph (phi công) và Driscoll William (hoa tiêu) của Hải quân, mỗi tổ lái hạ 5 chiếc.

Một phi công khác cũng cùng tên Nguyễn Văn Bảy, thường được gọi là "Bảy B", từng chỉ huy một biên đội 2 chiếc MiG-17 ngày 14 tháng 4 năm 1972 cất cánh từ sân bay Khe Gát, Quảng Bình ném trúng 2 quả bom 250 kg vào tàu khu trục Mỹ Highbee. Đây cũng là lần đầu tiên không quân của một quốc gia khác tiến công hạm đội Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Đặc biệt cho tới năm 2004, chỉ có Không quân Nhân dân Việt Nam là dám đối đầu và bắn rơi máy bay B-52, một loại siêu pháo đài bay hiện đại của không quân Hoa Kỳ bấy giờ. Trong Chiến tranh Việt Nam, có ba siêu pháo đài bay loại này được cho là do Không quân Nhân dân Việt Nam bắn rơi trong đêm 27/12/1972.

Chiếc máy bay MiG-21MF mang số hiệu 5121 mà Phạm Tuân đã dùng để bắn rơi một máy bay B-52 vào ngày 27/12/1972
  • Lần đầu do phi công Vũ Đình Rạng bắn trúng B-52 bằng 1 quả tên lửa K-13 vào đêm 20-11-1971 tại Nam Lào. Do chiếc B-52 rất lớn nên sức công phá của 1 quả tên lửa chưa đủ làm nó rơi ngay, và phi công Rạng cũng cho rằng mình chưa hạ được B-52. Nhưng theo lời kể sau này của Thiếu tá phi công F. Wantterhahn thì chiếc B-52 bị thủng thùng dầu bên trái, cháy nhưng dập được, một động cơ bị hỏng nặng, nó phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom- Phanom ở Đông Bắc Thái Lan. Sau đó do hỏng quá nặng nên không thể sửa chữa, bị xẻ ra rồi chở về Utapao, nên có thể coi như là đã bị tiêu diệt. Thành tích này đã cho thấy MiG-21 hoàn toàn có thể bắn hạ B-52 bằng 2 trái tên lửa mang theo (tất nhiên là phải có thêm chiến thuật hợp lý).
  • Lần thứ 2 và là nổi tiếng nhất là trận đêm 27 tháng 12 năm 1972, do phi công Phạm Tuân lái chiếc máy bay MiG-21FM đã bắn hạ 1 B-52 bằng 2 quả tên lửa không đối không NHK-8-9-1-2[17]. Phạm Tuân kể rằng: Do B-52 trang bị nhiều mồi nhiệt làm nhiễu đầu dò tên lửa nên Phạm Tuân đã áp sát B-52 ở cự ly 2–3 km rồi mới phóng tên lửa (dù tầm bắn của tên lửa là 8 km), ở cự ly này tên lửa chỉ mất 2-3 giây để tới mục tiêu nên chiếc B-52 sẽ không kịp thả mồi nhiễu. Rút kinh nghiệm từ vụ của Vũ Đình Rạng (chỉ phóng 1 quả tên lửa thì không đủ để hạ tại chỗ B-52) nên ông đã phóng liền cả hai tên lửa vào mục tiêu, không giữ lại tên lửa dự phòng.
  • Lần thứ 3, phi công Vũ Xuân Thiều được ghi nhận hạ 1 B-52 vào đêm 28 tháng 12 năm 1972, nhưng do tên lửa không đủ sức làm chiếc B-52 rơi tại chỗ,ông đã quyết định không thoát ly an toàn, mà lao thẳng vào chiếc B-52 và anh dũng hy sinh[18]

Các phi công Mỹ còn lưu truyền về một phi công MiG-17 được họ gọi bằng biệt hiệu Đại tá Toon (hay Tomb) với số lần bắn hạ đối phương là 13 lần, về sau bị một "Ách" của Hải quân Hoa Kỳ là Đại úy Randy "Duke" Cunningham bắn rơi. Một số người cho rằng đây là phi công Đinh Tôn, tuy nhiên Đinh Tôn lại lái chiếc MiG-21 và không được xếp vào nhóm "Ách". Trên thực tế, phía Việt Nam không đưa các phi công có cấp bậc Thiếu tá trở lên để tham gia không chiến. Sau này, Đại tá Toon được xác nhận là một nhân vật tưởng tượng do các phi công Mỹ tạo ra và thường xuyên được họ đưa ra làm đề tài chuyện phiếm. Như là thiện chí của các phi công Mỹ, Đại tá Toon là một sự tổng hợp của các phi công giỏi của Việt Nam, giống như những "nghệ sĩ sôlô" ném bom đơn độc ban đêm trong Chiến tranh thế giới thứ hai được gọi là "máy giặt Charlie" vậy.

Theo một thống kê, tổng cộng trong chiến tranh, Không quân Nhân dân Việt Nam tuyên bố đã bắn hạ 266 máy bay các loại của Mĩ[19][20], trong khi tổn thất trong chiến đấu là 131 máy bay các loại và 23 chiếc khác bị mất do tai nạn, đạt tỉ lệ tiêu diệt 1 đổi 2. Một nguồn khác ghi nhận rằng đã có 56 phi công Việt Nam từng bắn rơi máy bay Mỹ, 2 người trong số đó hạ 4 chiếc và 16 người hạ từ 5 chiếc trở lên. Đây là một kì công nhất là với trang bị máy bay cũ kĩ và số giờ bay thấp của các phi công[18].

Có thể tham khảo thành tích của các phi công tại đây

Lấy máy bay đối phương

Chiếc A-37 số hiệu 285 của Không quân VNCH do KQNDVN chiếm được tại sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận) đã tham gia oanh tạc sân bay Tân Sơn Nhất ngày 28-4-1975 (trưng bày tại bảo tàng chứng tích chiến tranh - TP Hồ Chí Minh)

Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam cũng có một số trường hợp đặc biệt hi hữu. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, Hồ Duy Hùng, vốn là một Thiếu úy phi công trực thăng vũ trang của Việt Nam Cộng hòa bị sa thải, thực chất là một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay trực thăng vũ trang UH-1A tại Đà Lạt và hạ cánh tại Dầu Tiếng, thuộc vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Đúng 17 tháng sau, ngày 8 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thành Trung, cũng là một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay phản lực chiến đấu F-5E, ném bom vào dinh Độc Lập và sau đó hạ cánh tại sân bay dã chiến tại Phước Long. Không lâu sau đó, đúng 20 ngày sau, vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, cũng chính Nguyễn Thành Trung dẫn đầu một phi đội gồm 5 chiếc khu trục ném bom A-37 chiến lợi phẩm, đã ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, thực hiện trận đánh cuối cùng của Không quân Việt Nam trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Phi đội gồm Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng, Từ Đễ (3 phi công lái MiG-21 vừa mới học chuyển loại) và Trần Văn On (phi công Không lực Việt Nam Cộng hòa tình nguyện tham gia chiến đấu).

Khu vực đỗ máy bay của không lực Chính quyền Sài Gòn đã bị trúng 6 quả bom làm ít nhất 3 chiếc AC – 119 và một số chiếc C–47 bị phá hủy hoàn toàn. Hai quả bom khác rơi đúng điểm giữa tòa nhà Phòng tác chiến và tháp chỉ huy.

Trong Chiến dịch Mùa xuân năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam tịch thu được 877 máy bay quân sự các loại, trong số đó có 41 chiếc F-5 Freedom Fighter và 95 chiếc A-37[21]. Trong số này, 250 chiếc còn rất tốt, có thể dùng để chiến đấu được ngay, số còn lại được để trong kho bảo quản hoặc chờ sửa chữa. Số máy bay này tiếp tục phục vụ rộng rãi trong chiến tranh biên giới Tây Nam chống lại các lượng lượng Khmer Đỏ. Đến thập niên 2000, chỉ một số ít máy bay tịch thu của Mỹ là còn hoạt động, số còn lại đã loại khỏi biên chế do đã cũ hoặc không có phụ tùng sửa chữa.

Không quân ném bom và cường kích

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Không_quân_Nhân_dân_Việt_Nam http://acepilots.com/vietnam/viet_aces.html http://www.acepilots.com/vietnam/viet_aces.html http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/06/1606... http://www.richard-seaman.com/Aircraft/Museums/Vie... http://www.vietnamdefence.com/Home/tintuc/Viet-Nam... http://www.acig.org/artman/publish/article_245.sht... http://www.acig.org/artman/publish/article_246.sht... http://aces.safarikovi.org/victories/vietnam.html http://baodatviet.vn/quoc-phong/ho-so/phong-khong-... http://baodatviet.vn/quoc-phong/ho-so/sao-vu-khi-l...